Trẻ sinh non là gì? Các công bố khoa học về Trẻ sinh non

Trẻ sinh non, hay còn được gọi là trẻ sinh non mổ sẻ, là một thuật ngữ y học để miêu tả trẻ em được sinh ra trước tuần thứ 37 của thai kỳ. Thời gian thai kỳ tru...

Trẻ sinh non, hay còn được gọi là trẻ sinh non mổ sẻ, là một thuật ngữ y học để miêu tả trẻ em được sinh ra trước tuần thứ 37 của thai kỳ. Thời gian thai kỳ trung bình là 40 tuần, vì vậy trẻ sinh non được coi là sinh sớm so với thời điểm kỳ vọng. Trẻ sinh non có thể gặp nhiều vấn đề sức khỏe do hệ thống cơ quan và chức năng của cơ thể chưa phát triển đầy đủ, và đòi hỏi chăm sóc và quan tâm đặc biệt.
Trẻ sinh non, hay trẻ sinh sớm, là thuật ngữ y học dùng để miêu tả trẻ em được sinh ra trước khi thai kỳ đạt tuần thứ 37. Trẻ sinh non có thể chia thành các nhóm dựa trên tuần thúc sinh của chúng:

1. Trẻ sinh non nhẹ (late preterm): Là trẻ sinh trong khoảng từ tuần thứ 34 đến tuần thứ 37+6 ngày. Trẻ sinh non nhẹ thường có khả năng tự hô hấp tốt hơn và ít phải sử dụng hỗ trợ hô hấp sau khi sinh.

2. Trẻ sinh non mức trung bình (moderate preterm): Là trẻ sinh trong khoảng từ tuần thứ 32 đến 33+6 ngày. Trẻ sinh non mức trung bình thường cần chăm sóc và quan tâm đặc biệt sau khi sinh, bởi vì hệ thống cơ quan của chúng chưa đủ phát triển.

3. Trẻ sinh non nặng (very preterm): Là trẻ sinh trước tuần thứ 32. Trẻ sinh non nặng có nguy cơ cao hơn gặp các vấn đề sức khỏe nghiêm trọng, như hỏng hệ thống hô hấp, hệ thống tiêu hóa, hệ thống thần kinh và hệ thống miễn dịch.

Trẻ sinh non thường có nguy cơ cao hơn gặp các vấn đề sức khỏe, bao gồm:

1. Hội chứng hô hấp vụn (respiratory distress syndrome - RDS): Đây là trạng thái khi phổi chưa phát triển đủ, gây khó khăn trong việc lấy và thông khí. RDS thường xảy ra ở trẻ sinh non và cần điều trị bằng oxy và máy thông khí.

2. Nguy cơ nhiễm trùng: Do hệ thống miễn dịch chưa hoàn thiện, trẻ sinh non dễ mắc các bệnh nhiễm trùng như viêm phổi, viêm màng não và viêm ruột.

3. Vấn đề tiêu hóa: Hệ tiêu hóa của trẻ sinh non cũng chưa hoàn thiện, gây khó khăn trong việc tiêu hóa và hấp thụ chất dinh dưỡng.

4. Vấn đề đường tiểu: Trẻ sinh non có nguy cơ cao hơn gặp vấn đề về chức năng thận và hệ tiết niệu.

5. Vấn đề tăng cân và phát triển: Trẻ sinh non cần được quan tâm đặc biệt để tăng cân và phát triển. Chúng có thể có nguy cơ thấp cân, suy dinh dưỡng và chậm phát triển so với trẻ đủ tháng.

Trẻ sinh non thường cần được chăm sóc trong môi trường quan tâm và an toàn, và theo dõi sát sao từ các chuyên gia y tế.

Danh sách công bố khoa học về chủ đề "trẻ sinh non":

Kết quả sơ sinh của trẻ sinh cực non từ Mạng lưới Nghiên cứu Sơ sinh NICHD Dịch bởi AI
American Academy of Pediatrics (AAP) - Tập 126 Số 3 - Trang 443-456 - 2010
MỤC TIÊU:

Bài báo này trình bày dữ liệu từ Mạng lưới Nghiên cứu Sơ sinh của Viện Eunice Kennedy Shriver về Sức khỏe Trẻ em và Phát triển Con người về chăm sóc và tỷ lệ mắc bệnh cũng như tử vong ở trẻ sinh rất nhẹ cân, theo tuổi thai (GA).

PHƯƠNG PHÁP:

Dữ liệu về giai đoạn trước sinh/sơ sinh đã được thu thập cho 9575 trẻ sơ sinh có GA cực thấp (22–28 tuần) và trọng lượng sinh rất thấp (401–1500 g) được sinh tại các trung tâm thuộc mạng lưới từ ngày 1 tháng 1 năm 2003 đến ngày 31 tháng 12 năm 2007.

KẾT QUẢ:

Tỷ lệ trẻ sống sót đến khi xuất viện tăng dần theo tuổi thai (6% ở 22 tuần và 92% ở 28 tuần); 1060 trẻ đã chết trong vòng ≤12 giờ, với phần lớn các ca tử vong sớm xảy ra ở 22 và 23 tuần (85% và 43%, tương ứng). Tỷ lệ sử dụng corticosteroid trước sinh (13% và 53%, tương ứng), mổ lấy thai (7% và 24%, tương ứng) và đặt nội khí quản trong phòng sinh (19% và 68%, tương ứng) đã tăng đáng kể giữa 22 và 23 tuần. Những trẻ có GA thấp nhất có nguy cơ mắc bệnh cao nhất. Tổng cộng, 93% có hội chứng suy hô hấp, 46% có ống động mạch còn tình trạng mở, 16% bị xuất huyết não nội thất nặng, 11% bị viêm ruột hoại tử, và 36% mắc nhiễm trùng huyết khởi phát muộn. Định nghĩa mới về độ nặng của bệnh phổi do phế quản đã phân loại nhiều trẻ hơn là mắc bệnh phổi do phế quản so với định nghĩa truyền thống về việc sử dụng oxy bổ sung ở 36 tuần (68%, so với 42%). Hơn một nửa trẻ có GA cực thấp có tình trạng võng mạc chưa xác định tại thời điểm xuất viện. Các sự khác biệt giữa các trung tâm trong quản lý và kết quả đã được xác định.

KẾT LUẬN:

Mặc dù đa số trẻ có GA ≥24 tuần sống sót, nhưng tỷ lệ cao mắc bệnh trong số những trẻ sống sót vẫn tiếp tục được quan sát.

Tăng trưởng năm đầu tiên của trẻ sinh non được cho ăn công thức tiêu chuẩn so với công thức bổ sung dầu biển n−3 Dịch bởi AI
Lipids - Tập 27 Số 11 - Trang 901-907 - 1992
Tóm tắt

Trẻ sơ sinh có trọng lượng rất thấp (VLBW) (748–1390 g, n=65) được phân ngẫu nhiên nhận công thức kiểm soát hoặc công thức bổ sung dầu biển khi có lượng tiêu thụ >454 kJ (110 kcal)/kg/ngày của một công thức dành cho trẻ VLBW. Các công thức nghiên cứu có hoặc không có dầu biển được cung cấp cho đến 79 tuần tuổi thai (PCA), đầu tiên trong công thức dành cho trẻ sinh non, tiếp theo là công thức dành cho trẻ sinh đủ tháng. Trẻ sơ sinh được theo dõi tại các thời điểm thường xuyên qua 92 tuần PCA. Cân nặng, chiều dài và chu vi đầu được xác định bằng các biện pháp chuẩn hóa và được chuẩn hóa theo số liệu của Trung tâm Thống kê Y tế Quốc gia cho sự phát triển của trẻ sơ sinh sinh đủ tháng cùng độ tuổi và giới tính. Trọng lượng chuẩn hóa trung bình, tỷ lệ cân nặng trên chiều dài và chu vi đầu lớn nhất ở 48 tuần và giảm dần từ đó. Sự giảm sút về trọng lượng chuẩn hóa lớn hơn ở trẻ được cho ăn công thức bổ sung dầu biển. Bắt đầu từ 40 tuần, trẻ bổ sung dầu biển so với trẻ trong nhóm kiểm soát có điểm z cho trọng lượng, chiều dài và chu vi đầu thấp hơn một cách có ý nghĩa. Thêm vào đó, thứ tự sinh (ảnh hưởng tiêu cực) và chiều cao mẹ (ảnh hưởng tích cực) ảnh hưởng đến sự đạt được trọng lượng và chiều dài ở trẻ sơ sinh, như đã được chứng minh trước đây ở trẻ sinh đủ tháng.

Ngộ độc thai kỳ ở mẹ có liên quan đến sự giảm tần suất xuất huyết mô nguyên sinh ở trẻ sơ sinh non tháng Dịch bởi AI
Journal of Child Neurology - Tập 7 Số 1 - Trang 70-76 - 1992

Để đánh giá các yếu tố nguy cơ trước sinh và trong sinh liên quan đến sự phát triển của xuất huyết mô nguyên sinh - xuất huyết nội thất (GMH-IVH), chúng tôi đã thực hiện một nghiên cứu dịch tễ học tiến cứu trên 449 trẻ sơ sinh có trọng lượng lúc sinh dưới 1501 gram. Nghiên cứu này cho phép chúng tôi kiểm tra giả thuyết mà chúng tôi đã đưa ra trước đó rằng trẻ sơ sinh của các bà mẹ bị tiền sản giật có nguy cơ phát triển GMH-IVH giảm đáng kể. Trong số này, bảy mươi hai (16%) trẻ sơ sinh đã phát triển GMH-IVH. Một (2,5%) trong số 40 bà mẹ có chẩn đoán tiền sản giật và 71 (17,4%) trong số 409 bà mẹ không bị tiền sản giật đã sinh ra những trẻ sơ sinh phát triển GMH-IVH. GMH-IVH đã được quan sát thấy ở 6/107 (5,6%) trẻ sơ sinh của các bà mẹ bị cao huyết áp, bao gồm 4/69 (5,8%) của trẻ sinh ra từ các bà mẹ bị cao huyết áp thai kỳ, so với 66/352 (18,8%) trẻ sơ sinh từ các bà mẹ không mắc cao huyết áp. Chỉ 7,3% (8/108) trẻ sinh ra từ các bà mẹ có protein niệu đã bị GMH-IVH, so với 18,3% (64/350) trẻ sơ sinh có mẹ không mắc protein niệu. GMH-IVH đã được quan sát thấy ở 5/89 (5,6%) trẻ sơ sinh có mẹ bị cả cao huyết áp và protein niệu, trong khi 63/332 (19%) trẻ sinh ra từ các bà mẹ không có cả hai yếu tố đó đã phát triển GMH-IVH. Trong phân tích hồi quy logistic từng bước, những phát hiện quan trọng này không thể được giải thích bởi sự hiện diện của cơn chuyển dạ, toan máu sau sinh, cần phải đặt nội khí quản, việc dùng corticosteroids trước sinh, trọng lượng lúc sinh hay tuổi thai. Ngoài ra, chúng tôi phát hiện rằng mẹ nhận được magnesi sulfat có liên quan đến nguy cơ giảm GMH-IVH ngay cả đối với những trẻ sinh ra từ các bà mẹ không có tiền sản giật. Chúng tôi giả thuyết rằng mối liên hệ giữa tiền sản giật và GMH-IVH có thể liên quan đến tác động của prostaglandin. Giá trị prostaglandin I2 (PGI2) ở mẹ, nhau thai và dây rốn giảm thường thấy ở những phụ nữ bị tiền sản giật. Do đó, trẻ sinh ra từ các bà mẹ bị tiền sản giật có thể ở trong trạng thái sinh lý tương tự như những người đã nhận indomethacin, một chất ức chế cyclooxygenase khiến giảm mức PGI2 và là một tác nhân dự phòng GMH-IVH hiệu quả. Chúng tôi kết luận rằng tiền sản giật/ngộ độc thai kỳ ở mẹ trong tam cá nguyệt ba sớm có liên quan đến nguy cơ giảm GMH-IVH ở trẻ sơ sinh non tháng. (J Child Neurol 1992;7:70-76).

Ảnh Hưởng của Việc Đồng Quản Liêu Ibuprofen-Lysine đến Dược Động Học của Amikacin ở Trẻ Sinh Non trong Những Ngày Đầu Đời Dịch bởi AI
Neonatology - Tập 86 Số 3 - Trang 207-211 - 2004

Mục tiêu của nghiên cứu này là đánh giá tác động của việc đồng quản lí ibuprofen-lysine qua đường tĩnh mạch đối với dược động học của amikacin trong những ngày đầu đời ở trẻ sinh non. Dược động học của amikacin đã được tính toán hồi cứu trên một nhóm 73 trẻ sơ sinh (tuổi thai <31 tuần) nhận ibuprofen-lysine hoặc placebo sau khi tham gia nghiên cứu dự phòng ibuprofen đa trung tâm. Giả định mô hình một khoang với đầu vào tức thời và đầu ra bậc nhất, không có sự khác biệt đáng kể về thể tích phân bố trung vị (0.63 so với 0.59 lít/kg), nhưng thời gian bán hủy huyết tương trung vị (16.4 so với 12.4 h) của amikacin dài hơn đáng kể (p < 0.02), và độ thanh thải (0.36 so với 0.6 ml/kg/phút; p < 0.005) của amikacin thấp hơn đáng kể ở những trẻ nhận ibuprofen-lysine. Chúng tôi kết luận rằng khoảng thời gian giữa các lần quản lí amikacin liên tiếp nên được kéo dài nếu ibuprofen-lysine được đồng quản lí.

Hỗ trợ tâm lý xã hội cho cha mẹ của trẻ sinh cực non trong chăm sóc đặc biệt trẻ sơ sinh: một nghiên cứu phỏng vấn định tính Dịch bởi AI
BMC Psychology - - 2019
Tóm tắt Nền tảng

Các trẻ sinh cực non (những trẻ được sinh ra trước 28 tuần tuổi thai) rất non nớt, yêu cầu phải được chăm sóc trong một thời gian dài tại đơn vị chăm sóc đặc biệt cho trẻ sơ sinh (NICU). Đối với cha mẹ, tình trạng sức khỏe nghiêm trọng của con họ và thời gian nằm viện kéo dài gây căng thẳng và rối loạn tâm lý. Nghiên cứu này nhằm khám phá nhu cầu hỗ trợ tâm lý xã hội của cha mẹ trẻ sinh cực non, và cách mà NICU với tư cách là một tổ chức và đội ngũ nhân viên đáp ứng hoặc không đáp ứng những nhu cầu này.

NGHIÊN CỨU ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG, CẬN LÂM SÀNG, ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ ĐIỀU TRỊ VIÊM PHỔI Ở TRẺ SƠ SINH NON THÁNG TẠI BỆNH VIỆN NHI ĐỒNG CẦN THƠ NĂM 2019 - 2020
  Đặt vấn đề: Viêm phổi (VP) là hiện tượng viêm nhiễm của nhu mô phổi bao gồm viêm phế nang, túi phế nang, ống phế nang, tổ chức liên kết khe kẽ và viêm tiểu phế quản tận cùng. Thời kỳ sơ sinh tính từ lúc sinh đến hết 28 ngày đầu sau đẻ, viêm phổi sơ sinh được chia hai loại: VP khởi phát (≤3 ngày sau sanh) và VP khởi phát trễ (>3 ngày sau sanh). Mục tiêu: Khảo sát đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng bệnh viêm phổi sơ sinh (VPSS) non tháng. Đánh giá kết quả điều trị và yếu tố liên quan bệnh viêm phổi ở trẻ sơ sinh non tháng. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu tiền cứu, cắt ngang có mô tả ở 65 trẻ VPSS non tháng và 67 trẻ VPSS đủ tháng từ 02/2019 đến 06/2020. Kết quả: Trẻ VPSS non tháng và trẻ VPSS đủ tháng không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về dấu hiệu nhiễm trùng bú kém bỏ bú (p = 0,127 >0,05) tuy nhiên có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về dấu hiệu nhiễm trùng như ọc sữa, chướng bụng và sốt ( hạ thân nhiệt) với p <0,05. Dấu hiệu hô hấp trẻ VPSS non tháng và trẻ VPSS đủ tháng có khò khè (13,85% và 64,18%), thở rên 27,69% và 1,49%, cơn ngưng thở >20 giây và tím tái chỉ xảy ra ở trẻ VPSS non tháng 43,08% và trẻ VPSS đủ tháng 4,48%. Nhóm VPSS non tháng có tỷ lệ đổi kháng sinh cao hơn nhóm VPSS đủ tháng (35,38% so với 22,39%). Tỷ lệ điều trị thành công ở  nhóm VPSS ở trẻ đủ tháng 74,63% và VPSS ở trẻ non tháng 56,92%. Tử vong chỉ xảy ra ở trẻ VPSS non tháng 7,69%.
#viêm phổi sơ sinh (VPSS) #viêm phổi (VP)
NGHIÊN CỨU ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG, CẬN LÂM SÀNG VÀ KẾT QUẢ ĐIỀU TRỊ BỆNH MÀNG TRONG BẰNG BƠM SURFACTANT QUA KỸ THUẬT LISA Ở TRẺ SƠ SINH NON THÁNG TẠI BỆNH VIỆN PHỤ SẢN THÀNH PHỐ CẦN THƠ
Đặt vấn đề: Bệnh màng trong phổ biến ở trẻ sơ sinh non tháng, xảy ra do thiếu hụt surfactant vì phổi chưa trưởng thành. Bơm surfactant ít xâm lấn (LISA) điều trị bệnh màng trong đã được chứng minh về hiệu quả, an toàn, tính khả thi và được áp dụng nhiều nơi trên thế giới. Mục tiêu nghiên cứu: 1) Mô tả đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng bệnh màng trong ở trẻ sơ sinh non tháng.2) Đánh giá kết quả điều trị và một số yếu tố liên quan thất bại điều trị bệnh màng trong bằng bơm surfactant qua kỹ thuật LISA. 3) Khảo sát một số yếu tố liên quan đến thất bại điều trị bệnh màng trong bằng bơm surfactant qua kỹ thuật LISA Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang 169 trẻ sơ sinh non tháng bệnh màng trong tại Bệnh viện Phụ sản thành phố Cần Thơ từ tháng 01/2019 đến 12/2020. Kết quả: Giới tính nam chiếm 59,2%, tuổi thai trung bình 31,3 ± 2,7 tuần, cân nặng trung bình 1576 ± 463g. Có 29,6% trẻ suy hô hấp mức độ nặng, có 15,4% trẻ nhiễm trùng sơ sinh sớm, bệnh màng trong độ II, III chiếm 78,7%. Bơm surfactant giúp giảm nhu cầu FiO2 rõ rệt sau 6 giờ (53,1% xuống 32,8%), tăng SpO2 (88,6% lên 94,1%). Sau bơm 6 giờ, bệnh màng trong độ III giảm từ 86,7% xuống 31,1%, không còn bệnh màng trong độ IV. Trẻ sống chiếm 62,2%, tử vong 37,8%. Yếu tố liên quan đến thất bại điều trị: tuổi thai, cân nặng lúc sinh, suy hô hấp nặng (OR=5,63, p=0,029), nhiễm trùng sơ sinh sớm (OR=5,33, p=0,034). Kết luận: Điều trị bệnh màng trong bằng surfactant cho trẻ sơ sinh non tháng đạt hiệu quả đáng kể và cần tiếp tục thực hiện.
#Bệnh màng trong #surfactant #LISA
ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ VÀ TÌM HIỂU MỘT SỐ YẾU TỐ LIÊN QUAN ĐẾN CHĂM SÓC TRẺ SƠ SINH NON THÁNG BẰNG PHƯƠNG PHÁP KANGAROO TẠI BỆNH VIỆN ĐA KHOA KHU VỰC CHÂU ĐỐC
  Đặt vấn đề: Tỉ lệ trẻ sinh non/nhẹ cân chiếm 19% trong mô hình bệnh tật của trẻ sơ sinh, chăm sóc tốt các trẻ sinh non/nhẹ cân luôn là mục đích của y học nhằm cho ra đời những trẻ có thể chất khoẻ mạnh, thông minh trong đó chăm sóc trẻ bằng phương pháp Kangaroo là giải pháp đơn giản hiệu quả nhất cho trẻ sinh non/nhẹ cân. Mục tiêu nghiên cứu: Đánh giá kết quả chăm sóc trẻ sơ sinh non tháng bằng phương pháp Kangaroo và tìm hiểu một số yếu tố liên quan đến chăm sóc trẻ non tháng. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu cắt ngang có phân tích trên 48 trẻ non tháng có cân nặng từ 1500 gram đến 2500 gram, không dị tật bẩm sinh, không phụ thuộc thở máy. Kết quả: 68,8% trẻ có vàng da, 64,4% trẻ có suy hô hấp nhẹ, 50% trẻ có nhiễm trùng huyết khi áp dụng chăm sóc Kangaroo. Người thực hành chủ yếu là cha và mẹ chiếm: 62,5%. Số ngày chăm sóc Kangaroo trung bình 9,6±2,5 ngày. Số giờ thực hành tăng dần từ 12,6 giờ lên 15,4 giờ/ngày khi mẹ đã quen cách chăm sóc, sự thay đổi mạch, nhiệt độ, nhịp thở trẻ không đáng kể và dần ổn định, cân nặng trẻ có giảm trong 3-4 ngày đầu sau đó tăng dần từ 2004±255gram lên 2161±257gram, 100% bà mẹ hài lòng với chăm sóc trẻ bằng phương pháp Kangaroo. Kết luận: Chăm sóc trẻ bằng phương pháp Kangaroo là giải pháp đơn giản hiệu quả giúp cho trẻ hoàn thiện thể chất.
#sinh non #Kangaroo
NGUYÊN NHÂN VÀ KẾT QUẢ ĐIỀU TRỊ SUY HÔ HẤP Ở TRẺ SƠ SINH TẠI BỆNH VIỆN SẢN NHI NGHỆ AN
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 527 Số 1B - 2023
Mục tiêu: Xác định nguyên nhân và kết quả điều suy hô hấp ở trẻ sơ sinh trị tại Bệnh viện Sản Nhi Nghệ An từ tháng 4/2022-3/2023. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả tiến cứu trong thời gian từ 4/2022-03/2023 trên 346 bệnh nhi sơ sinh được chẩn đoán là suy hô hấp tại khoa Hồi sức sơ sinh – Bệnh viện Sản Nhi Nghệ An. Kết quả: Trong tổng số 346 bệnh nhi suy hô hấp cho thấy tuổi thai trung bình 32,9±3,6 tuần tuổi, cân nặng trung bình 1900 ± 780 grams, bệnh nhi nam gấp 1,4 lần so với bệnh nhi nữ. Các nguyên nhân gây suy hô hấp sau sinh được ghi nhận lần lượt là bệnh màng trong chiếm 33,8%; chậm tiêu dịch phổi (2,6%), viêm phổi (1,4%), 0,9% do ngạt. Các yếu tố lâm sàng là nguy cơ ảnh hưởng đến kết quả điều trị như: như trẻ phải bóp bóng đặt NKQ khi nhập viện; Sp0­­2 lúc nhập viện <90%; nhiệt độ <36 độ C. 82,6% trẻ suy hô hấp có nguyên nhân tại phổi được điều trị thành công. Kết luận: Nguyên nhân gây suy hô hấp sau sinh chủ yếu là do trẻ bị bệnh màng trong, kết quả điều trị thành công chiếm tỷ lệ cao.
#Suy hô hấp sơ sinh #ngạt #trẻ sinh non
ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG VÀ KẾT QUẢ ĐIỀU TRỊ TỒN TẠI ỐNG ĐỘNG MẠCH Ở TRẺ SINH NON ≤ 28 TUẦN TẠI KHOA HỒI SỨC SƠ SINH BỆNH VIỆN NHI ĐỒNG 2
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 520 Số 1B - 2023
Đặt vấn đề: Tồn tại ống động mạch (PDA) là một tật tim phổ biến ở trẻ sơ sinh. Tỉ lệ PDA càng cao ở trẻ càng non tháng. PDA làm tăng nguy cơ tử vong và bệnh tật ở trẻ. Hiện nay, các tiêu chuẩn đánh giá, chỉ định và phương pháp điều trị PDA ở trẻ sinh non còn chưa thống nhất. Nghiên cứu được thực hiện nhằm cung cấp thông tin về tỉ lệ PDA, hiện trạng điều trị và biến chứng liên quan PDA ở trẻ ≤28 tuần tại khoa Hồi sức sơ sinh Bệnh viện Nhi Đồng 2 (HSSS BVNĐ2). Thiết kế nghiên cứu: Theo dõi tiến cứu. Các trẻ ≤28 tuần nhập khoa từ 01/10/2021 đến 31/03/2022 sẽ được siêu âm tim tầm soát PDA. Trẻ có hsPDA (PDA ảnh hưởng huyết động trên siêu âm) có triệu chứng sẽ được can thiệp dùng thuốc hay cột PDA khi có chỉ định. Tỉ lệ tử vong, các biến chứng nặng (viêm ruột hoại tử (VRHT), xuất huyết não (XHN), bệnh võng mạc ở trẻ sinh non (ROP), loạn sản phế quản phổi (BPD)) được ghi nhận. Kết quả: Có 33 trẻ được thu nhận, tỉ lệ hsPDA là 26/33 (78,7%). Tại thời điểm siêu âm tim lúc 48-72 giờ tuổi, ngày 4 và trong tuần 2, tỉ lệ hsPDA cần điều trị thuốc chiếm tỉ lệ lần lượt là 80%, 100% và 66,6%. Tỉ lệ trẻ hsPDA xử trí bảo tồn thành công là 4/26 (15,4%). Có 19/26 (82,6%) trẻ có chỉ định dùng thuốc, trong đó 18 trẻ dùng Paracetamol tĩnh mạch (TM), 1 trẻ dùng Ibuprofen đường uống. Tỉ lệ đóng Paracetamol thành công trong lần đầu dùng thuốc là 12/18 (66,67%). Không có sự khác biệt về tỉ lệ tử vong và các biến chứng nặng giữa nhóm bảo tồn thành công và nhóm dùng thuốc. Kết luận: Hs-PDA hiện diện ở hơn ¾ trẻ cực non ≤28 tuần. Siêu âm tim sau 48 giờ tuổi có thể làm tăng khả năng phát hiện hsPDA cần điều trị bằng thuốc. HsPDA có khả năng xử trí bảo tồn thành công với tỉ lệ 15%. Đóng PDA bằng Paracetamol TM cho thấy sự an toàn và hiệu quả.
#non tháng #tồn tại ống động mạch #PDA #paracetamol TM #xử trí bảo tồn.
Tổng số: 144   
  • 1
  • 2
  • 3
  • 4
  • 5
  • 6
  • 10